ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC: ẤN ĐỘ
TUYÊN BỐ CHUNG
VỀ KHUÔN KHỔ HỢP TÁC TOÀN
DIỆN GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HÒA ẤN ĐỘ BƯỚC
VÀO THẾ KỈ 21 (01-5-2003)
(do Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Di Niên
và Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Yashwant Sinha kí)
[Mofa.gov.vn] - Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ấn Độ (sau đây gọi tắt là hai Bên)
là hai nước bạn bè truyền thống, có mối quan hệ hữu nghị lâu đời, được các nhà
lãnh đạo tiền bối Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Gia-oa-hác-lan Nê-ru cũng
như các thế hệ lãnh đạo sau này của hai nước dầy công vun đắp. và Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Yashwant Sinha kí)
Các chuyến thăm lịch sử của Pan-đít Gia-oa-hác-lan Nê-ru tới Hà Nội tháng 10 năm 1954, ngay sau khi Hà Nội được giải phóng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Ấn Độ tháng 02 năm 1958 đã mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ gần gũi lâu đời giữa hai nước và là nguồn cổ vũ mạnh mẽ nhân dân hai nước chúng ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do xây dựng cuộc sống mới của mỗi nước, góp phần gìn giữ hòa bình ở Châu Á và trên thế giới.
Kế tục truyền
thống đó, các nhà lãnh đạo hai nước đã tiến hành nhiều cuộc thăm viếng chính thức
và thiết lập được nền tảng vững chắc cho sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và hợp
tác toàn diện giữa nhân dân hai nước. Sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại
giao đầy đủ ngày 07 tháng 01 năm 1972 và nhất là sau khi Việt Nam thống nhất,
hai nước đã hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả nhằm xây dựng mối quan hệ đối tác
tin cậy, lâu dài và toàn diện. Quan hệ song phương ngày càng được tăng cường vì
lợi ích của mỗi nước cũng như vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của
khu vực và thế giới. Thông qua sự ủng hộ lẫn nhau trong những lúc khó khăn, mối
quan hệ giữa hai nước đã trở thành nhân tố gắn kết hai dân tộc trong lúc tình
hình quốc tế có nhiều thay đổi phức tạp.
Bước vào thế kỷ
21, hai Bên quyết tâm phát huy mối quan hệ hữu nghị truyền thống và nâng quan hệ
hợp tác giữa hai nước lên tầm cao mới nhằm ứng phó với các thách thức mới của
toàn cầu hóa, mối đe dọa của khủng bố quốc tế và những thách thức to lớn đối với
hệ thống quốc tế. Hai Bên phấn đấu phát triển khía cạnh chiến lược trong quan hệ
đối tác vì lợi ích chung của nhân dân hai nước, và góp phần vào hòa bình, ổn định,
hợp tác và sự thịnh vượng của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.
Hai Bên khẳng
định tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp
quốc tế, đặc biệt là những nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, không làm ảnh hưởng
tới quan hệ của mỗi nước với nước thứ ba, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, ủng hộ
và giúp đỡ lẫn nhau trên tình anh em.
Trong bối cảnh
đó, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò truyền thống
của Ấn Độ trong Liên Hợp Quốc và ủng hộ Ấn Độ trở thành thành viên thường trực
của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc được mở rộng.
Trên cơ sở các
mục tiêu, phương châm và nguyên tắc trên, hai Bên thỏa thuận thực hiện trong 15
năm tới một Chương trình Hợp tác Toàn diện với nội dung chủ yếu sau:
(i) Hai Bên sẽ
tiến hành thường xuyên các cuộc gặp gỡ cấp cao nhằm củng cố quan hệ chính trị tốt
đẹp vốn có và tạo động lực mới cho sự hợp tác về mọi mặt giữa hai nước. Trên cơ
sở quan triệt tầm quan trọng chiến lược của mối quan hệ hợp tác giữa hai nước,
các Bộ, ngành, các nghị sĩ Quốc hội, địa phương, doanh nghiệp và tổ chức quần
chúng hai nước sẽ tăng cường trao đổi, giao lưu và tiếp xúc hữu nghị, để củng cố
hơn nữa quan hệ đối tác với nhau.
(ii) Hai Bên
nhất trí hợp tác chặt chẽ tại Liên Hợp Quốc và các diễn đàn quốc tế khác. Với ý
thức về tầm quan trọng của hợp tác khu vực trong quan hệ song phương, hai Bên
khẳng định mong muốn phối hợp lập trường với nhau tại các tổ chức khu vực và tiểu
vùng, đặc biệt là Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF),
và Hợp tác Sông Hằng - Sông Mê-kông.
(iii) Hai Bên
cũng cam kết trợ giúp nhau bảo vệ lợi ích của mỗi nước trên trường quốc tế và
góp phần vào nỗ lực chung nhằm dân chủ hóa quan hệ quốc tế. Hai Bên lên án chủ
nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức và biểu hiện và nhất trí tăng cường hợp tác
trong việc thực hiện các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
về chống khủng bố và trong việc chống mọi hình thức bạo lực và khủng bố, mọi âm
mưu áp đặt hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền.
Nhằm mục đích này, Bộ Ngoại giao hai nước sẽ tiến hành tham khảo chính trị thường
niên về các diễn biến của chính trị quốc tế, các biện pháp giúp nhau hội nhập đầy
đủ vào các thể chế hợp tác khu vực và quốc tế và những biện pháp phối hợp khác
trên các diễn đàn quốc tế.
(iv) Hai Bên sẽ
cố gắng duy trì và nâng cao hơn nữa hiệu quả của các cuộc họp thường kì hai năm
một lần của Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Ấn Độ nhằm làm cho cơ chế này đáp ứng tốt
hơn tiến trình cải cách kinh tế ở hai nước và định ra những phương hướng mới
phù hợp với các mục tiêu và yêu cầu phát triển của từng nước.
(v) Hai Bên
quyết tâm nâng cao tầm hợp tác kinh tế, cụ thể trong các lĩnh vực sau:
1. Trong lĩnh
vực thương mại, hai Bên cam kết đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu,
thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm đạt kim ngạch thương mại 1 tỉ
USD vào năm 2015. Hai Bên cũng nhất trí thực hiện các biện pháp ưu đãi thuế
quan cho nhau phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế của mình, nhằm thúc đẩy cân bằng
thương mại giữa hai nước;
2. Trong lĩnh
vực đầu tư và tư vấn quản lí, hai Bên cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư và tư vấn của hai nước, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng
đầu tư và quản lí kinh doanh cũng như các hoạt động tư vấn sang các lĩnh vực
như dầu khí, hóa chất, hóa dầu, phân bón, điện lực, dược phẩm, công nghệ thông
tin, chế biến nông sản, các ngành công nghiệp nhẹ, viễn thông, đóng tầu và cảng
biển, đường sắt, thép và khai khoáng;
3. Nhằm hỗ trợ
cho sự hợp tác về thương mại và đầu tư giữa hai nước, trên tinh thần anh em, nước
Cộng hòa Ấn Độ cam kết tiếp tục cung cấp, ở mức cao nhất có thể được, tín dụng
ưu đãi và viện trợ không hoàn lại cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để
nhập các thiết bị của nước Cộng hòa Ấn Độ. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cam kết sử dụng có hiệu quả các khoản tín dụng và viện trợ này ưu tiên nhập
của Ấn Độ các thiết bị tương tự trên cơ sở giá cạnh tranh đối với những khoản
không phải là tín dụng cho vay hoặc viện trợ không hoàn lại.
(vi) Hai Bên
coi hợp tác khoa học - công nghệ là động lực của sự hợp tác giữa hai nước. Hai
Bên sẽ đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu - phát triển trong các lĩnh vực nông nghiệp,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, viễn thám và
những ứng dụng vũ trụ khác, khí tượng, thủy văn, hải dương học, sử dụng điện hạt
nhân vào các mục đích hòa bình và các ngành công nghệ mũi nhọn khác.
(vii) Hai Bên
thỏa thuận từng bước mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực an ninh và quốc phòng,
các biện pháp chống cướp biển, ngăn chặn các hành động khủng bố nhằm vào mỗi nước
và sớm kí hiệp định song phương về chống tội phạm. Hai Bên sẽ khuyến khích việc
trao đổi đoàn, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm chống khủng bố quốc tế và những
cơ chế ủng hộ khủng bố, đặc biệt là tội phạm có tổ chức và việc buôn lậu vũ khí
và ma túy.
(viii) Hai Bên
coi hợp tác phát triển nguồn nhân lực là một trụ cột trong hợp tác song phương
và cam kết tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa loại hình hợp tác này. Nước Cộng hòa
Ấn Độ cam kết duy trì số lượng mỗi năm 120 học bổng dài hạn và ngắn hạn cho
sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam sang học tại nước Cộng hòa Ấn Độ. Hai Bên sẽ
phối hợp tạo điều kiện cho sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam sang học tại nước
Cộng hòa Ấn Độ theo học bổng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
theo chế độ tự túc. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho việc thiết lập chi nhánh các tổ chức đào tạo cao học của Ấn Độ ở
Việt Nam và cho các sinh viên, nghiên cứu sinh Ấn Độ sang học tập tại Việt Nam.
(ix) Hai Bên
cam kết tăng cường trao đổi và hợp tác về hóa văn hóa - thông tin, khảo cổ học,
bảo tồn, bảo tàng, du lịch, y tế, thể dục thể thao, giữa các cấp trung ương
cũng như địa phương. Hai Bên cũng khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức
xã hội và thanh niên hai nước phát triển các mối quan hệ nhân dân với nhân dân
và củng cố sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị lâu dài.
Tuyên bố chung
này được làm thành ba thứ tiếng Việt Nam, tiếng Hin-đi và tiếng Anh. Ba văn bản
có giá trị pháp lí như nhau. Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, sẽ lấy
bản tiếng Anh làm gốc.
Làm tại Niu Đê
- Li, ngày 01 tháng 5 năm 2003.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét