PHÒNG KĨ THUẬT SENSOR, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG GIAN KHÓ
Ngày 18-9-1979 theo Quyết định số 1775/QL-0 do Phó Viện trưởng
Viện Kĩ thuật Quân sự Nguyễn Quỳ kí, Ban Vật liệu Từ và một nửa Ban Quang Bán
dẫn (gồm 10 người) thuộc Phân Viện Vật lý Kĩ thuật được điều động tạm
thời về Phòng Quang Lượng tử
(B24). Bốn ngày sau, ngày 22-9,
Chủ nhiệm Tổng cục Kĩ thuật kí quyết định số 820/QĐ-KT hợp
nhất Phòng Quang Lượng tử và bộ phận cắt
từ Phân Viện Vật lý Kĩ thuật thành Phân Viện nghiên cứu Vật lý Kĩ thuật (B29). Phòng
nghiên cứu Quang dẫn và Vật liệu Từ chính thức được thành lập! TS
Hoàng Xuân Nguyên làm Trưởng Phòng.
Với chức năng nhiệm vụ được giao ngay từ những ngày đầu hình thành các nhóm (1974): Nghiên cứu chế
tạo Đầu Thu (Ban Quang Bán dẫn) và Gương Từ tính (Ban Vật liệu Từ)
cho Đầu Tên lửa phỏng A72M; lại trong những ngày sôi động của cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở cả phía Bắc và phía Nam, CBCNV của Phòng đã lao ngay vào công việc.
Từ 10-1979 cho đến hết năm 1981, nhiệm vụ của Phòng tập trung vào hai hướng chính:
Phục vụ chiến đấu: ứng dụng Kính Nhìn đêm cho hải đảo và biên
giới phía Bắc, phục vụ xây dựng Sở Chỉ huy tác chiến Quân khu 1, Quân khu 2
(que chỉ bản đồ, bản đồ từ).
Giai
đoạn 1982-1988
Đây là thời gian có nhiều biến động nhất. Phòng đổi tên thành Phòng
Vật liệu thuộc Phân Viện B16 (Quyết định số 914/QL-0 do Viện trưởng Phan
Thu kí, ngày 10-8-1983), Trưởng Phòng: TS Hoàng Xuân Nguyên (đến năm 1983), sau đó là TS Nguyễn
Văn Khải (1985-1987); quân số của Phòng liên tục thay đổi, kể cả Lãnh đạo
Phòng. Rất nhiều cán bộ, nhiều tiến sĩ về và chuyển đi (số cán bộ ở lại và
chuyển đi trong thời kì này ở Phòng khoảng 26 người). Để lí giải
điều này, phải dựa trên cơ sở phân
tích thấu đáo, nhưng có lẽ việc đào tạo ngành và hướng nghiên cứu chưa khớp
được với nhau, nhiệt huyết có nhưng tâm tư cũng rất nhiều, bên cạnh đó đời sống
thời gian này vô cùng vất vả. Phải nói rằng, đây là giai đoạn hết sức khó khăn
của đất nước nói chung, kinh tế trì trệ, chế độ bao cấp nặng nề,
đời sống nhân dân cực kì thiếu thốn. Do kinh phí nghiên cứu hết sức eo hẹp, các
cơ quan bung ra làm kế hoạch II, kế hoạch
III để cải thiện thêm cho anh em. Phòng Vật liệu cũng không thể
thoát khỏi xu hướng đó. Công tác chuyên môn thời kì này chia thành 3 mảng chính: Nghiên cứu cơ bản, Nghiên cứu ứng dụng và Hoạt động kinh tế trên cơ sở các kết quả nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ bản
Từ nhiệm vụ ban đầu là nghiên cứu chế tạo các Linh kiện cho Đầu
tự dẫn Tên lửa mô phỏng A72M, đến thời kì này hướng nghiên cứu tạm dừng. Vấn đề đặt ra, tiếp tục như thế
nào?
Theo Quyết
định số 513/KH-82 của Viện trưởng Viện KTQS về
kế hoạch nghiên cứu 5 năm (1981-1985),
trong đó Phân Viện VLKT có chương trình “Nghiên cứu thiết kế chế
tạo một số loại máy phát Laser và ứng dụng trong Quốc phòng”, Phòng Vật liệu
trong năm 1982 đã đề xuất và được duyệt các đề tài 06-08 “Nghiên cứu qui trình
chế thử một số Vật liệu Linh kiện thu tia Laser trên cơ sở CdS và PbS” và đề tài 08-15 “Nghiên cứu chế thử Màng mỏng Từ”.
Trong những năm tiếp
theo đến 1988, phát triển thêm các đề tài “Gia công các
linh kiện Bán dẫn”, “Pin Quang điện - Quang trở CdS, PbS, CdHgTe”, “Nghiên cứu chế thử các Đầu nhạy cảm Từ, các Nam
châm chất lượng cao”, “Nghiên cứu ổn định qui trình sản xuất Từ dẻo”, “Khảo sát, khai thác sử dụng các loại cảm
biến trong hệ thống hàng rào điện tử của Mĩ”.
Nghiên cứu ứng dụng
Để có thể đưa nghiên cứu vào ứng dụng trong phục vụ Quốc phòng
và Kinh tế quốc dân, trong thời gian này Phòng đã triển khai một số đề tài các
cấp như “Nghiên cứu lắp ráp, thử nghiệm Pin Mặt trời trên cơ sở Vật liệu Silic”, “Chế thử máy Dò mìn
phi kim loại đến hơn 10 cm”, “Lắp Mạch tạo xung PSec dòng lớn cho Laser”.
Hoạt động kinh tế trên cơ sở các kết quả nghiên cứu
Thời gian này cùng với cả Viện và Phân Viện, Phòng đã giành một
phần quan trọng lực lượng tập trung tìm cách
tháo gỡ khó khăn trong đời sồng kinh tế chung. Từ việc phục vụ chế tạo các Bản
đồ Từ cho Sở Chỉ huy, sản xuất Viên Nam châm cho cơ sở thiết bị trường học, sản xuất Đất đèn, sản xuất Đèn pin dùng Nam châm, chế tạo Hệ thống đóng ngắt Đèn đường tự động, chế tạo Quang trở CdS lắp trên hệ thống mô phỏng Tập lái… cho đến việc tham gia lắp đặt hệ thống báo Cháy, báo Khói, chống Sét, và cả Chăn nuôi!
Giai
đoạn 1989-1994
Bước sang năm 1989, theo
Quyết định số 336/QĐ-QP, ngày 26-12-1988, Phân Viện VLKT đổi thành Trung tâm VLKT (B16) và Phòng Vật
liệu thành Phòng Sensor Vật lý với nhiệm vụ chế thử một số loại
sensor dùng hiệu ứng vật lý phục vụ chỉ huy trinh sát, huấn luyện bộ đội và một
số lĩnh vực khác. Trưởng phòng: TS
Lê Thái Lai.
Đây là giai đoạn vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là hướng phát triển của Phòng. Trong 2 năm 1990-1991, Phòng tiếp tục triển khai nhiệm vụ
nghiên cứu chế tạo máy dò Mìn; lắp ráp, thử nghiệm hoạt động của Pin Mặt trời
trong điều kiện khí hậu VN; chế tạo các Lò nhiệt độ cao sử dụng Sensor Nhiệt.
Đến năm 1992, Phòng nhận đề tài cấp Bộ QP: “Nghiên cứu chế tạo
hệ thống Đàm thoại dưới nước”
- đây là bước đi đầu tiên trong việc nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến Thủy
Âm. Bên cạnh đó vẫn đẩy mạnh các nghiên cứu
ứng dụng: chế tạo máy Điện Từ trường dùng trong Y tế; thiết kế chế tạo thiết bị tự động Đo và Khống
chế Nhiệt độ phục vụ kinh tế quốc dân.
Năm 1993-1994, việc nghiên cứu trong lĩnh vực Thủy Âm được đẩy
mạnh hơn với đề tài cấp Viện “Nghiên cứu cải tiến hệ Sensor Thủy Âm nhằm bảo vệ
hải cảng, hải đảo”. Một số sáng kiến được công nhận:
Thiết kế chế tạo đầu thu phát Thủy Âm dải rộng (công suất nhỏ),
Chế tạo phần điện tử cho máy Thông tin dưới nước,
Cải tiến máy Sấy silicagen phục vụ chương trình bảo quản của
Quân đội,
Súng bắn Tập báo số phát đạn bắn đi và báo trúng đích,
Tiếp tục cải tiến hoàn thiện phương pháp nạp Từ Dẻo, kiểm tra chất lượng Viên Từ.
Giai
đoạn 1995-1999
Theo Quyết định số 196/QĐ-TM, ngày 10-4-1995 về qui hoạch tổ
chức lực lượng của Viện KTQS do Phó Tổng Tham mưu trưởng Đỗ Văn Đức kí, Trung
tâm VLKT giữ nguyên tên gọi. Phòng Sensor Vật lý đổi tên thành Phòng Kĩ
thuật Sensor Vật liệu với chức năng nhiệm vụ: Kĩ thuật Sensor phục vụ
quan sát đêm và bắn chính xác. TS Lê Thái Lai là Trưởng Phòng đến
năm 1997, sau đó là KS Hoàng Văn Thảo.
Trong năm 1995, Phòng có hai đề tài cấp Viện: “Nghiên cứu chế
tạo thiết bị Điều khiển Nổ dưới nước” và “Nghiên cứu chế tạo máy Đo độ Ẩm hiện
số”. Phòng bắt đầu thực hiện một số Hợp đồng với Quân chủng Hải quân về thiết
bị nguồn đặc chủng.
Theo công văn số 199/KH-3, ngày 08-4-1996 của Viện trưởng Viện KTQS phân định nhiệm vụ cho các đơn vị tổ chức
thực hiện hợp tác nghiên cứu với Cục Kĩ thuật, BTL
Hải quân, Trung tâm VLKT chính thức bắt đầu thực hiện một số nhiệm vụ, hướng
nghiên cứu phục vụ tác chiến của quân chủng Hải quân và Phòng Kĩ
thuật Sensor Vật liệu cũng chính thức các công tác sửa chữa Thủy lôi, Ngư lôi, chế tạo các loại nguồn đặc chủng cho Hải quân.
Cũng trong năm 1996, theo công văn số 261/KH, ngày 03-7-1996 do
Cục trưởng Cục KHCNMT kí, Dự
án Phòng Thí nghiệm VLKT thuộc kế hoạch đầu tư tiềm lực bắt đầu được triển
khai, trong đó Phòng Kĩ thuật Sensor Vật liệu sẽ được trang bị “Thiết bị Phân
tích Phổ Âm thanh dải rộng PULSE”.
Trong hai năm 1996-1997, Phòng thực hiện hai đề tài cấp Bộ “Ứng
dụng Kĩ thuật Vật lý Sensor đo đạc các thông số kĩ thuật trong sản xuất” và
“Máy Thông tin dưới nước”
Năm 1998-1999, Phòng tham gia Chương trình ĐT-02 trong đội hình chung của Phân Viện
và Viện KTQS. Đề tài “Ứng dụng Kĩ thuật Vật lý Sensor đo đạc các thông số kĩ
thuật trong sản xuất” được chuyển sang
AT “Hoàn thiện công nghệ ứng dụng…”
Giai
đoạn 2000-2003
Theo quyết định số 358/2000/QĐ-TM, ngày 02/6/2000 của Tổng Tham
mưu trưởng, Phân Viện VLKT thuộc Viện Điện tử - Công nghệ Thông tin - Viễn thông, Trung tâm Khoa học, Kĩ thuật và Công
nghệ Quân sự. Phòng Kĩ thuật Sensor Vật liệu đổi thành Phòng
Kĩ thuật Sensor và Vật liệu Từ với chức năng nghiên cứu, ứng dụng các tiến
bộ KHKTCNQS để thiết kế, chế tạo, sửa chữa, cải tiến các sản phẩm của ngành
Kĩ thuật Sensor và Vật liệu Từ. KS Hoàng Văn Thảo tiếp tục là Trưởng phòng.
Đây là giai đoạn yêu cầu phải có chuyển tiếp về chất công tác
nghiên cứu của Phòng. Mặc dù trong hai năm 2001-2002, Phòng tiếp tục chủ trì đề
tài cấp Bộ về Vật liệu “Nghiên cứu chế tạo vật liệu hấp thụ sóng Rađa bằng công
nghệ Vật lý Vật liệu Từ”, nhưng thấy rằng nếu đầu tư cả về năng lực cán bộ
nghiên cứu lẫn về trang thiết bị công nghệ vật liệu sẽ hết sức khó khăn trong
thời điểm hiện tại cũng như về lâu dài. Sản phẩm của mình nghiên cứu chế tạo
ra, chất lượng chưa thể cao được, thời gian cũng sẽ
kéo dài hơn so với nếu mua của nước ngoài. Như vậy phải chuyển đổi thế nào
trong khi cán bộ hiện tại đều chỉ có chuyên môn sâu là công nghệ vật liệu?
Trong những năm này, Phòng tiếp tục phát triển hướng phục vụ Quân Binh
chủng: nguồn đặc chủng cho Tăng
Thiết giáp, sửa chữa Ngư lôi, Thủy
lôi cho Hải quân.
Giai
đoạn 2003-2010
Theo QĐ số 429/QĐ-TM, ngày 12-5-2003 của Tổng Tham mưu trưởng, Phân Viện VLKT thuộc Viện Điện tử - Viễn Thông, còn Phòng Kĩ thuật Sensor và Vật liệu Từ vẫn
giữ nguyên tên cũ và trong chức năng chỉ bổ sung thêm “… sản phẩm của ngành
Kĩ thuật Âm học”. KS Hoàng Văn Thảo tiếp tục giữ chức vụ Trưởng phòng đến
giữa năm 2007, sau đó CN Phạm Văn Hoài đảm nhận chức vụ này.
Cuối năm 2003, Phòng chính thức hợp tác nghiên cứu cùng Quân chủng
Hải quân trong Đề tài cấp Nhà nước KC.09-18
“ Nghiên cứu trường Sóng Âm và trường Sóng Nội
vùng biển Việt Nam” -
đề tài được thực hiện đến hết 2005. Phòng đảm nhiệm nhánh đo đạc khảo
sát kiểm chứng mô hình. Khi thực hiện đề tài, hiểu biết về lĩnh vực Thủy Âm của
cán bộ trong Phòng thực sự được nâng cao, vì đây hoàn toàn là lĩnh vực mới đối
với Phòng. Các mối quan hệ với Quân chủng chặt chẽ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi sâu vào lĩnh vực Thủy Âm
của Phòng. Bên cạnh đó Phòng vẫn tiếp tục thực hiện các hợp đồng với
Quân Binh chủng về chế tạo thiết bị nguồn đặc chủng, nguồn tổng hợp biến tần
400 Hz, thiết bị phóng điện đa năng,…
Trong năm 2005, 2008, 2009, cán bộ của Phòng tích cực tham gia
Chương trình MK, Dự án I của Bộ. Đề tài
cấp Bộ “Nghiên cứu chế tạo hệ thống giả tín hiệu Thủy Âm phục vụ huấn luyện vũ
khí, khí tài Hải quân” được bắt đầu từ năm 2007. Năm 2008, Phòng thực hiện đề
tài nhiệm vụ cấp Bộ “Nghiên cứu chế tạo Màng mỏng TiO2 trên đế thủy tinh quang
học chống thấm nước bề mặt”.
Công tác đào tạo trong nhiều năm chưa được Phòng chú trọng. Từ
năm 1979 đến 2003 mới chỉ có 01 nghiên cứu sinh và 02 chuyển tiếp sinh. Từ năm
2003, Phòng tập trung hơn cho công tác này.
Đến nay đã hoàn thành luận án 01 tiến sĩ, 02 cao học, 02 đang làm luận án
TS, 01cao học. Nhiều cán bộ trẻ tham dự lớp đào tạo kiến thức Thủy Âm do chuyên
gia nước ngoài giảng. Việc đào tạo sẽ nâng cao
chất lượng chuyên môn của Phòng trong những năm tới.
Một trong những nhiệm vụ chiến lược của Phòng là tìm cách chuyển từ
nghiên cứu chế tạo Vật liệu sang nghiên cứu Ứng dụng. Để làm được việc này phải
có đủ cán bộ có năng lực đồng bộ từ Vật lý, Điện tử và Công nghệ Thông tin.
Công tác đào tạo không thể ngày một ngày hai là có được mà phải có thời gian,
có sự chủ động tích cực của bản thân cán bộ nghiên cứu, đồng thời phải có sự hỗ
trợ tích cực của các cấp trong công tác cán bộ. Phòng chọn bài toán Sensor Mạng
làm tiền đề cho việc định hướng nghiên cứu dài hơi. Muốn giải bài toán này phải có người hiểu biết sâu
sắc về Vật lý các loại Sensor, phải có
chuyên gia Điện tử chuyên về thu phát, mã hóa, phân tích tổng hợp tín hiệu của
hệ thống Mạng Sensor trong các môi trường
truyền tín hiệu khác nhau, phải có chuyên gia Công nghệ Thông
tin mô phỏng, xử lí, hiển thị, nhận dạng
tín hiệu. Nếu có được đội ngũ như vậy, bài toán định vị nhận dạng mục tiêu trên
không, trên mặt đất, dưới nước đều có thể thực hiện được! Các cán bộ trẻ trong
Phòng đã thực hiện đề tài vốn tự có liên quan đến Sensor đơn lẻ (trên cơ sở Sensor
chấn rung MINISIT trong hàng rào điện tử của
Mĩ). Tuy nhiên đây mới chỉ là bước nhập môn
của bài toán Mạng Sensor!
Giai
đoạn 2010 đến nay
Viện Vật lý Kĩ thuật chính thức được thành lập theo quyết định số
810/QĐ-TM, ngày 21-5-2010 của Tổng Tham mưu
trưởng và chính thức ra mắt ngày 12-8-2010. Phòng Phòng Kĩ thuật Sensor và
Vật liệu Từ mang tên mới: Phòng Kĩ thuật Sensor. Th.S Trần Thế Anh làm Trưởng Phòng.
Thay cho hai đồng chí nghỉ hưu, Phòng được bổ sung 03 cán bộ trẻ
đều là thạc sĩ và có các chuyên ngành rất phù hợp cho hướng phát triển đã hoạch định: Thủy âm, Điện tử
và Công nghệ Vật liệu. 02 cán bộ đang là nghiên cứu sinh, 01 đang học cao học.
Với đội ngũ mới - trẻ, năng động và nhiệt huyết chắc Phòng sẽ có nhiều chuyển
biến mới.
Trong năm 2012, Phòng đã chủ trì hai nhiệm vụ lớn đều phục vụ
cho công tác phòng thủ biển đảo: “Nghiên cứu sửa chữa, tiến tới chế tạo nguồn Shutting
đặc chủng” và “Sửa chữa đầu Thủy lôi UDM”, đây là bước khởi đầu chuẩn bị cho hướng nghiên cứu ứng dụng kĩ thuật Thủy
Âm trong việc xây dựng hệ thống đo đạc trắc
biển, xây dựng hệ thống Sensor Mạng Thủy
Âm phòng thủ biển đảo.
Các cán bộ trẻ đã được tham dự lớp học về Kĩ thuật xử lí tín
hiệu Tàu ngầm do chuyên gia nước ngoài
trình bày, đây là những tư
liệu rất quí. Ngoài ra Phòng cũng đã được trang bị thêm thiết bị PULSE cơ động, rất hữu hiệu trong công tác nghiên cứu.
***
Trải qua hơn 30 năm
hình thành và phát triển, Phòng Kĩ thuật Sensor đã trải qua những
chặng đường gian khó. Vốn là ngành tương đối
độc lập trong đội hình của Phân Viện VLKT và hiện nay là Viện VLKT, Phòng có những
thuận lợi nhưng cũng có rất nhiều khó khăn. Đội ngũ cán
bộ phần lớn tốt nghiệp ĐH Tổng
hợp, kiến thức chung có, nhưng chuyên sâu về những hướng đặc thù của Quân đội rất ít, cho nên chủ yếu là tự đào tạo hoặc tự tìm kiếm
hướng phát triển. Nhìn
chung Phòng đã có những đóng góp nhất định cho công tác nghiên cứu phục vụ Quân
đội, nhưng chưa có được sản phẩm có thương hiệu. Với lực lượng mới, cách nhìn
mới, tin rằng trong thời gian không xa, Phòng sẽ tạo ra được sản phẩm của riêng
của mình, góp phần phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung và có được vị
trí xứng đáng trong đội hình của Viện Vật lý Kĩ thuật nói riêng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét